Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Nhận thức được tầm quan trọng của CĐS, hiện nhiều nước đã xây dựng và triển khai các chiến lược/chương trình quốc gia về CĐS, điển hình như Anh, Úc, Đan Mạch, Estonia, Israel, Mexico, Singapore, Thái Lan, Uruguay, Trung Quốc,… Nội dung CĐS của các nước có khác nhau, phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Trong đó, thực hiện CĐS trong lĩnh vực giáo dục là một trong những hoạt động nhận được nhiều sự quan tâm và đó cũng là nhu cầu tất yếu của tất cả các nước. Đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy quá trình này phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, CĐS được nhận định là chìa khóa nâng cao hoạt động, gia tăng năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, tổ chức thông qua những ưu điểm nổi bật mà nó mang lại như tối ưu chi phí hoạt động, nâng cao năng suất chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ. Đối với giáo dục nói chung, giáo dục đại học (GDĐH) nói riêng, CĐS mang lại cơ hội áp dụng công nghệ để tạo ra những thay đổi nhanh chóng về mô hình, cách thức tổ chức và phương pháp dạy – học
Hoạt động CĐS trong lĩnh vực giáo dục đang tập trung vào nỗ lực hỗ trợ cho hoạt động dạy (giảng viên), học (sinh viên, học viên,…) và thay đổi phương pháp dạy và học - từ trực tiếp (offline) sang các hình thức học tập trực tuyến (online), pha trộn (blended) và lai ghép (hybrid) thông qua ứng dụng công nghệ số. Thông qua CĐS, song song với các lớp học truyền thống với những nhược điểm như chi phí tổ chức cao, không gian phục vụ hạn chế, thời gian cố định… vẫn được duy trì một cách phổ biến, xuất hiện thêm các hình thức đào tạo trong giáo dục có thể triển khai linh hoạt hơn như: đào tạo từ xa, mô phỏng (simulation), lớp học đảo ngược (flipped classrooms), trò chơi hóa (gamification), tài nguyên giáo dục mở (OER) và cá nhân hóa (personalization). Không gian học tập trở nên đa dạng hơn, thay vì những phòng thí nghiệm hay phòng mô phỏng truyền thống thì người học có thể trải nghiệm học tập bằng không gian ảo, có thể tương tác người với người, người với máy như thật thông qua các phần mềm mô phỏng công nghệ thực tế ảo (virtual reality – VR)…
Với CĐS, hình thức tương tác trực tiếp không còn là cách thức duy nhất để thực hiện truyền tải tri thức, việc kết hợp các hình thức học tập trở thành một lựa chọn lâu dài cho học tập trong giáo dục nhằm đảm bảo hoạt động đào tạo diễn ra liên tục trong mọi tình huống. Một ví dụ điển hình là các chương trình dạy kỹ thuật nông nghiệp, chăn nuôi của VTV2 trong một thời gian dài đã mang đến cho người nông dân cơ hội được tiếp cận với kỹ thuật, công nghệ, cách thức sản xuất mới mà không cần phải tìm tòi quá lâu hoặc phải đến tận các nông hội, hợp tác xã hoặc xa hơn là các trường học để nắm bắt được.
Một xu hướng phổ biến hiện nay, đặc biệt có lợi và tiết kiệm cho các cơ sở GDĐH và hoạt động CĐS trong giáo dục là xu hướng các cá nhân tự trang bị thiết bị cá nhân của mình và sử dụng ở mọi lúc mọi nơi, đặc biệt là điện thoại di động, máy tính xách tay, máy tính bảng và các công cụ tương tự (BYOD – bring your own device). Trong trường hợp này, các cơ sở GDĐH sẽ hạn chế được chi phí đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ giảng dạy, tiết kiệm chi phí đào tạo cách thức sử dụng thiết bị, và người học đang được hưởng lợi lớn khi trường học được giao đến tận nơi mà người học yêu cầu.
Dữ liệu lớn sẽ là nguồn dữ liệu vô tận để học tập trải nghiệm về phân tích, dự đoán xu hướng hay dự báo một vấn đề xảy ra trong tương lai gần ở mức chính xác cao (ví dụ: trong hội nhập đào tạo có thể dự báo được số lượng tuyển sinh của mỗi năm hay một ứng dụng mới nổi gần đây là AI Chat GPT đã thay đổi cách nhìn nhận của thế giới về khả năng vô hạn của công nghệ dữ liệu). Tài nguyên học tập số trong điều kiện kết nối không gian thật và ảo sẽ vô cùng phong phú, không gian thư viện không còn là địa điểm cụ thể, mà thư viện có thể khai thác mọi lúc mọi nơi, dữ liệu số không giới hạn có thể thay cho không gian thật vừa tốn kém. Chương trình dạy học được thiết kế đa dạng hơn, cụ thể hơn và đáp ứng tốt hơn nhu cầu giáo dục cá nhân hóa.
Công nghệ điện toán đám mây với đặc điểm là mô hình dịch vụ lưu trữ thông tin quy mô lớn, dữ liệu có liên quan với công việc nghiên cứu khác nhau, dự án hoặc thông tin có thể tái sử dụng, có thể được giao cho các đám mây lưu trữ quản lý và có thể được truy cập theo yêu cầu, vì vậy, được ứng dụng cao trong các hoạt động quản lý và đào tạo. Nhà trường có thể hợp tác với các cơ sở giáo dục khác để xây dựng một kho lưu trữ thông tin (thư viện số, học liệu số, công trình nghiên cứu khoa học…) theo mô hình lưu trữ tập trung ảo nhằm giảm chi phí lưu trữ để duy trì kho dữ liệu giáo dục và giảm được việc bảo dưỡng các học liệu.
Như vậy, CĐS cho phép giáo dục được thực hiện toàn diện và đầy đủ mà không có gặp mặt, giao tiếp trực tiếp, có nghĩa là phương thức chuyển tải thay đổi từ trực tiếp sang từ xa, đòi hỏi thay đổi ở nhiều khía cạnh.
CĐS trong GDĐH tập trung vào hai nội dung:
(1) CĐS trong đào tạo (dạy, học, kiểm tra, đánh giá) - nghiên cứu khoa học và
(2) CĐS trong quản trị GDĐH (quản trị hành chính, quản trị các phòng ban, quản trị con người, quản trị tài chính…).
Trong đào tạo (dạy, học, kiểm tra, đánh giá) gồm số hóa các học liệu (sách giáo khoa điện tử, bài giảng điện tử, kho bài giảng E-learning, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm), thư viện số, phòng thí nghiệm ảo, triển khai hệ thống đào tạo trực tuyến, xây dựng các trường đại học ảo (cyber university) … CĐS không chỉ là số hóa bài giảng, hay ứng dụng các phần mềm vào xây dựng bài giảng mà còn là sự chuyển đổi toàn bộ cách thức, phương pháp giảng dạy, kỹ thuật quản lý lớp học, tương tác với người học sang không gian số, khai thác công nghệ thông tin để tổ chức giảng dạy thành công. Bên cạnh đó, toàn bộ dữ liệu về quá trình học tập của người học cũng được theo dõi và lưu trữ bằng công nghệ chứ không phải thông qua hệ thống hồ sơ sổ sách thông thường.
Trong nghiên cứu khoa học gồm quản trị các đề tài nghiên cứu khoa học, các bài báo nghiên cứu, các hợp tác nghiên cứu khoa học… dưới dạng số và có trực quan hình ảnh để dễ dàng theo dõi và báo cáo.
Trong quản lý giáo dục (QLGD) bao gồm số hóa thông tin quản lý, tạo ra những hệ thống cơ sở dữ liệu lớn liên thông, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng các công nghệ số để quản lý con người, điều hành, tài chính, hỗ trợ ra quyết định một cách nhanh chóng, chính xác dựa trên các báo cáo, dữ liệu trực quan để theo dõi.
Trong quản lý đầu ra, cần sử dụng những công nghệ mới nhất để hỗ trợ bảo đảm việc đào tạo, đánh giá, kiểm tra, công nhận kết quả và cấp bằng, chứng chỉ là đúng đối tượng. Không chỉ kết quả đánh giá được số hoá, mà quá trình đánh giá cũng phải được triển khai, thực hiện bằng ứng dụng công nghệ trên máy tính.
CĐS kéo các thay đổi cơ chế quản lý, thay đổi cơ cấu tổ chức bên trong, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, chuyển đổi các mối quan hệ, quy trình xử lý thông tin, ra quyết định và giải quyết công việc từ môi trường truyền thống sang môi trường số, cũng như thay đổi việc quản trị các nguồn lực trong cơ sở GDĐH và từ đó sinh ra những giá trị số và văn hóa số trên môi trường ảo.
Đối tượng chính của chuyển đổi số trong giáo dục là:
Quá trình CĐS trong giáo dục đại học tất yếu dẫn đến một mô hình mới trong việc cung cấp các phương pháp học tập và nghiên cứu cho mọi đối tượng người học. Cùng với quá trình CĐS, dần dần sẽ xuất hiện và phát triển một trường đại học "ảo" trên nền tảng số song hành với trường đại học "thực" tại một vị trí địa lý cố định.
Việc xuất hiện những loại học liệu mới, phong phú và đa dạng hơn từ các nguồn cung cấp qua internet, những "giảng đường ảo" có đối tượng người học không phân biệt về vị trí địa lý, trình độ đầu vào và cả những "giảng viên ảo" mới không thuộc biên chế cố định của một cơ sở giáo dục nào... và từ đó sẽ làm phát sinh những yêu cầu mới, những phương pháp quản lý và đánh giá mới cho toàn bộ hoạt động của trường đại học.
Xem thêm:
Chuyển đổi số (Digital transformation) (CĐS) là một khái niệm đã được thế giới đề cập tới nhiều trong những năm 2015, phổ biến từ năm 2017. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước chỉ ra rằng CĐS là xu thế tất yếu, diễn ra rất nhanh đặc biệt trong bối cảnh của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 như hiện nay.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về CĐS nhưng có thể nói chung đó là chuyển các hoạt động của chúng ta từ thế giới thực sang thế giới ảo ở trên môi trường mạng, thay đổi cách thức làm việc và quản trị. Theo đó, mọi người tiếp cận thông tin nhiều hơn, rút ngắn về khoảng cách, thu hẹp về không gian, tiết kiệm về thời gian. CĐS là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số, nói cách khác, CĐS là quá trình chuyển việc thực hiện các công việc cũ, nhiệm vụ cũ theo một cách mới thuận lợi hơn, thú vị hơn, hiệu quả hơn trên không gian mạng.
CĐS, trên thực tế, là một quá trình tuần hoàn không ngừng chứ không phải là một đích đến cố định. Sau mỗi chu trình vận động, thay đổi, những cách thức mới, giá trị mới, văn hóa mới sẽ được định hình và phát triển song song với sự phát triển của công nghệ, nền tảng… trên môi trường mạng.
1. Số hóa tài liệu và phát triển kho tài nguyên số.
2. Quy trình hóa và số hóa quy trình xử lý công việc, tổ chức giảng dạy, quản lý kết quả, hợp tác và sử dụng các kết quả nghiên cứu...
3. Áp dụng số hóa và số hóa quy trình vào thực tế trên các nền tảng (platform) và các ứng dụng thông minh, sử dụng các thiết bị công nghệ cao.
Sau bước (3) kể trên, quá trình trưởng thành số liên tục diễn ra theo chiều hướng ngày càng tiến bộ, thuận lợi hơn cho người dùng và người thực hiện quản trị.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định 03 mốc mục tiêu và 6 nhiệm vụ trọng tâm, phấn đấu đến năm 2045, đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, với thu nhập cao. Trong số các nhiệm vụ nhấn mạnh: Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện CĐS quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Tư tưởng này đã được cụ thể trong hàng loạt các Quyết định của các Bộ/ Ban/ ngành về việc CĐS, ứng dụng công nghệ thông tin như:
+ Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/09/2019 của Bộ Chính trị về “Một số cơ chế chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”;
+ Quyết định 749/QĐ-TTg ngày 03/06/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (trong đó giáo dục và đào tạo là một trong 8 lĩnh vực được ưu tiên triển khai thực hiện);
+ Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 phê duyệt của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (trong đó có đề cập đến giải pháp đột phá là xây dựng và phát triển các đại học số, như là trụ cột để đào tạo và phát triển năng lực số cho người dân và doanh nghiệp. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến thúc đẩy CĐS trong các cơ sở giáo dục đại học).
+ Quyết định số 2222/QĐ-TTg ngày 30/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030;
+ Quyết định số 206/QĐ-TTg ngày 11/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đối số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030;
+ Quyết định số 2289/QĐ-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030;
+ Quyết định số 127/QĐ-TTg ngày 26/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo đến năm 2030;
+ Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030;
+ Quyết định số 1726/QĐ-BTTTT ngày 12/10/2020 của Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt Đề án xác định bộ chỉ số đánh giá CĐS của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và của quốc gia;
+ Quyết định số 38/QĐ-BTTTT ngày 14/01/2021 của Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt Chương trình thúc đẩy, hỗ trợ chuyển đổi IPv6 cho cơ quan nhà nước giai đoạn 2021-2025;
Trong ngành giáo dục, Bộ GD&ĐT đã có Thông tư 12/2016/TT-BGDĐT quy định ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tổ chức đào tạo qua mạng. Trong Thông tư này, Bộ đã coi việc sử dụng trang thiết bị điện tử, học liệu điện tử, mạng interrnet là phương tiện hỗ trợ tổ chức và quản lý đào tạo theo hai hình thức: Đào tạo kết hợp và Học tập điện tử (e-learrning). Bộ cũng quy định rõ những nội dung đào tạo nào được triển khai qua mạng;
Ngoài ra, ngày 30/03/2021, Bộ cũng ban hành Thông tư 09/2021/TT-BGDĐT Quy định về quản lý và tổ chức dạy học trực tuyến trong cơ sở giáo dục phổ thông và cơ sở giáo dục thường xuyên.
Ngày 30/12/2022, Bộ ban hành Quyết định số 4750/QĐ-BGDĐT về “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và CĐS năm 2023 của Bộ GDĐT”, xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện gồm (1) xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách (2) tăng cường các điều kiện đảm bảo triển khai ứng dụng CNTT và CĐS trong giáo dục, đào tạo (3) phát triển hệ sinh thái CĐS hoạt động dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học (4) triển khai hệ thống thông tin quản lý giáo dục đào tạo (5) triển khai đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ CĐS quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030 và (6) tuyên truyền, phổ biến, phát triển nhân lực thực hiện CĐS ngành giáo dục.
Cùng ngày, Bộ ban hành Quyết định 4740/QĐ-BGDĐT ngày 30/12/2022 về Bộ chỉ số, tiêu chí đánh giá CĐS cơ sở giáo dục đại học gồm bộ chỉ số, tiêu chí đánh giá CĐS trường đại học gồm 2 nhóm tiêu chí thành phần (i) nhóm tiêu chí “CĐS trong đào tạo và (ii) Nhóm tiêu chí “CĐS trong quản trị cơ sở GDĐH”. Ngoài ra, Bộ chỉ số thể hiện rõ thang đo đánh giá mức độ CĐS trường đại học gồm hàng loạt các nhóm tiêu chí thành phần với 3 mức độ (i) chưa đáp ứng (ii) đáp ứng cơ bản và (iii) đáp ứng tốt nhằm định hướng và giúp các trường đại học chủ động trong công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch hoạt động theo xu hướng CĐS hiện nay.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Trường Đại học Ngoại thương nhiệm kỳ 2020-2025 ngày 29/06/2020 xác định mục tiêu: "Nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học, bao gồm trang thiết bị, hạ tầng về công nghệ thông tin, đẩy mạnh thực hiện CĐS đảm bảo đáp ứng yêu cầu đào tạo và nghiên cứu trong bối cảnh hội nhập quốc tế; xây dựng một số hạng mục đảm bảo đạt chuẩn quốc tế."
Chiến lược phát triển Trường Đại học Ngoại thương giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2040 xác định rõ xu thế tất yếu của CĐS và một số kết quả đã đạt được thông qua quá trình CĐS của Nhà trường. Chiến lược cũng chỉ ra việc thiếu nguồn nhân lực cho CĐS là một trong những hạn chế hiện nay của Nhà trường từ đó xác định mục tiêu dành nguồn lực tài chính cho CĐS (Mục tiêu 4) cũng như xác định CĐS là một trong những hoạt động được chú trọng, là đột phá chiến lược trong giai đoạn 2021-2025.
Trong Kế hoạch hoạt động của Hội đồng trường năm 2022 với mục tiêu nâng cao năng lực của Nhà trường thông qua việc triển khai xây dựng và thực hiện một số dự án/đề án; đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai CĐS, hướng tới trở thành một trường đại học thông minh cũng chỉ rõ cần xây dựng phương hướng CĐS của Nhà trường
Chương trình công tác của Ban chấp hành Đảng bộ Trường Đại học Ngoại thương năm 2023 xác định việc xây dựng mô hình CĐS phù hợp với điều kiện của Nhà trường; phát triển hệ sinh thái giáo dục trên không gian mạng là một trong những nội dung hoạt động lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn của Ban chấp hành.
Các văn bản chỉ đạo về việc sử dụng các công cụ, tài khoản email, hướng dẫn và các quy trình sử dụng phòng máy, vận hành phòng máy khi tổ chức thi và các văn bản khác
Như vậy, có thể khẳng định, CĐS đã được xác định là một trong các nhiệm vụ trọng tâm, đột phát chiến lược trong xây dựng, phát triển Trường Đại học Ngoại thương và đã được khẳng định rõ trong các văn bản chỉ đạo của Nhà trường.
Như đã phân tích ở trên, việc phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 hiện nay mang đến rất nhiều thách thức nhưng cũng là cơ hội rất lớn cho toàn xã hội. Chuyển đối số là một quá trình và là đòi hỏi tất yếu trong thời điểm hiện nay đối với xã hội nói chung, giáo dục đại học và Trường Đại học Ngoại thương nói riêng.
Chuyển đổi số đã được xác định rõ trong các văn bản chỉ đạo từ cấp cao nhất và cần được bắt đầu thực hiện trong thời gian sớm nhất.
Vì vậy, cần thiết phải xây dựng Đề án chuyển đổi số của Trường Đại học Ngoại thương để xác định rõ bước đi, các nhiệm vụ cụ thể, những khâu đột phá trong giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2030 và sớm triển khai các nhiệm vụ này nhằm biến Trường Đại học Ngoại thương trở thành trường đại học điện tử (năm 2025) và hướng tới trở thành trường đại học số (năm 2030).