Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Loading...
Xem thêm:
Nhận thức được tầm quan trọng của CĐS, hiện nhiều nước đã xây dựng và triển khai các chiến lược/chương trình quốc gia về CĐS, điển hình như Anh, Úc, Đan Mạch, Estonia, Israel, Mexico, Singapore, Thái Lan, Uruguay, Trung Quốc,… Nội dung CĐS của các nước có khác nhau, phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Trong đó, thực hiện CĐS trong lĩnh vực giáo dục là một trong những hoạt động nhận được nhiều sự quan tâm và đó cũng là nhu cầu tất yếu của tất cả các nước. Đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy quá trình này phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, CĐS được nhận định là chìa khóa nâng cao hoạt động, gia tăng năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, tổ chức thông qua những ưu điểm nổi bật mà nó mang lại như tối ưu chi phí hoạt động, nâng cao năng suất chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ. Đối với giáo dục nói chung, giáo dục đại học (GDĐH) nói riêng, CĐS mang lại cơ hội áp dụng công nghệ để tạo ra những thay đổi nhanh chóng về mô hình, cách thức tổ chức và phương pháp dạy – học
Hoạt động CĐS trong lĩnh vực giáo dục đang tập trung vào nỗ lực hỗ trợ cho hoạt động dạy (giảng viên), học (sinh viên, học viên,…) và thay đổi phương pháp dạy và học - từ trực tiếp (offline) sang các hình thức học tập trực tuyến (online), pha trộn (blended) và lai ghép (hybrid) thông qua ứng dụng công nghệ số. Thông qua CĐS, song song với các lớp học truyền thống với những nhược điểm như chi phí tổ chức cao, không gian phục vụ hạn chế, thời gian cố định… vẫn được duy trì một cách phổ biến, xuất hiện thêm các hình thức đào tạo trong giáo dục có thể triển khai linh hoạt hơn như: đào tạo từ xa, mô phỏng (simulation), lớp học đảo ngược (flipped classrooms), trò chơi hóa (gamification), tài nguyên giáo dục mở (OER) và cá nhân hóa (personalization). Không gian học tập trở nên đa dạng hơn, thay vì những phòng thí nghiệm hay phòng mô phỏng truyền thống thì người học có thể trải nghiệm học tập bằng không gian ảo, có thể tương tác người với người, người với máy như thật thông qua các phần mềm mô phỏng công nghệ thực tế ảo (virtual reality – VR)…
Với CĐS, hình thức tương tác trực tiếp không còn là cách thức duy nhất để thực hiện truyền tải tri thức, việc kết hợp các hình thức học tập trở thành một lựa chọn lâu dài cho học tập trong giáo dục nhằm đảm bảo hoạt động đào tạo diễn ra liên tục trong mọi tình huống. Một ví dụ điển hình là các chương trình dạy kỹ thuật nông nghiệp, chăn nuôi của VTV2 trong một thời gian dài đã mang đến cho người nông dân cơ hội được tiếp cận với kỹ thuật, công nghệ, cách thức sản xuất mới mà không cần phải tìm tòi quá lâu hoặc phải đến tận các nông hội, hợp tác xã hoặc xa hơn là các trường học để nắm bắt được.
Một xu hướng phổ biến hiện nay, đặc biệt có lợi và tiết kiệm cho các cơ sở GDĐH và hoạt động CĐS trong giáo dục là xu hướng các cá nhân tự trang bị thiết bị cá nhân của mình và sử dụng ở mọi lúc mọi nơi, đặc biệt là điện thoại di động, máy tính xách tay, máy tính bảng và các công cụ tương tự (BYOD – bring your own device). Trong trường hợp này, các cơ sở GDĐH sẽ hạn chế được chi phí đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ giảng dạy, tiết kiệm chi phí đào tạo cách thức sử dụng thiết bị, và người học đang được hưởng lợi lớn khi trường học được giao đến tận nơi mà người học yêu cầu.
Dữ liệu lớn sẽ là nguồn dữ liệu vô tận để học tập trải nghiệm về phân tích, dự đoán xu hướng hay dự báo một vấn đề xảy ra trong tương lai gần ở mức chính xác cao (ví dụ: trong hội nhập đào tạo có thể dự báo được số lượng tuyển sinh của mỗi năm hay một ứng dụng mới nổi gần đây là AI Chat GPT đã thay đổi cách nhìn nhận của thế giới về khả năng vô hạn của công nghệ dữ liệu). Tài nguyên học tập số trong điều kiện kết nối không gian thật và ảo sẽ vô cùng phong phú, không gian thư viện không còn là địa điểm cụ thể, mà thư viện có thể khai thác mọi lúc mọi nơi, dữ liệu số không giới hạn có thể thay cho không gian thật vừa tốn kém. Chương trình dạy học được thiết kế đa dạng hơn, cụ thể hơn và đáp ứng tốt hơn nhu cầu giáo dục cá nhân hóa.
Công nghệ điện toán đám mây với đặc điểm là mô hình dịch vụ lưu trữ thông tin quy mô lớn, dữ liệu có liên quan với công việc nghiên cứu khác nhau, dự án hoặc thông tin có thể tái sử dụng, có thể được giao cho các đám mây lưu trữ quản lý và có thể được truy cập theo yêu cầu, vì vậy, được ứng dụng cao trong các hoạt động quản lý và đào tạo. Nhà trường có thể hợp tác với các cơ sở giáo dục khác để xây dựng một kho lưu trữ thông tin (thư viện số, học liệu số, công trình nghiên cứu khoa học…) theo mô hình lưu trữ tập trung ảo nhằm giảm chi phí lưu trữ để duy trì kho dữ liệu giáo dục và giảm được việc bảo dưỡng các học liệu.
Như vậy, CĐS cho phép giáo dục được thực hiện toàn diện và đầy đủ mà không có gặp mặt, giao tiếp trực tiếp, có nghĩa là phương thức chuyển tải thay đổi từ trực tiếp sang từ xa, đòi hỏi thay đổi ở nhiều khía cạnh.
CĐS trong GDĐH tập trung vào hai nội dung:
(1) CĐS trong đào tạo (dạy, học, kiểm tra, đánh giá) - nghiên cứu khoa học và
(2) CĐS trong quản trị GDĐH (quản trị hành chính, quản trị các phòng ban, quản trị con người, quản trị tài chính…).
Trong đào tạo (dạy, học, kiểm tra, đánh giá) gồm số hóa các học liệu (sách giáo khoa điện tử, bài giảng điện tử, kho bài giảng E-learning, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm), thư viện số, phòng thí nghiệm ảo, triển khai hệ thống đào tạo trực tuyến, xây dựng các trường đại học ảo (cyber university) … CĐS không chỉ là số hóa bài giảng, hay ứng dụng các phần mềm vào xây dựng bài giảng mà còn là sự chuyển đổi toàn bộ cách thức, phương pháp giảng dạy, kỹ thuật quản lý lớp học, tương tác với người học sang không gian số, khai thác công nghệ thông tin để tổ chức giảng dạy thành công. Bên cạnh đó, toàn bộ dữ liệu về quá trình học tập của người học cũng được theo dõi và lưu trữ bằng công nghệ chứ không phải thông qua hệ thống hồ sơ sổ sách thông thường.
Trong nghiên cứu khoa học gồm quản trị các đề tài nghiên cứu khoa học, các bài báo nghiên cứu, các hợp tác nghiên cứu khoa học… dưới dạng số và có trực quan hình ảnh để dễ dàng theo dõi và báo cáo.
Trong quản lý giáo dục (QLGD) bao gồm số hóa thông tin quản lý, tạo ra những hệ thống cơ sở dữ liệu lớn liên thông, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng các công nghệ số để quản lý con người, điều hành, tài chính, hỗ trợ ra quyết định một cách nhanh chóng, chính xác dựa trên các báo cáo, dữ liệu trực quan để theo dõi.
Trong quản lý đầu ra, cần sử dụng những công nghệ mới nhất để hỗ trợ bảo đảm việc đào tạo, đánh giá, kiểm tra, công nhận kết quả và cấp bằng, chứng chỉ là đúng đối tượng. Không chỉ kết quả đánh giá được số hoá, mà quá trình đánh giá cũng phải được triển khai, thực hiện bằng ứng dụng công nghệ trên máy tính.
CĐS kéo các thay đổi cơ chế quản lý, thay đổi cơ cấu tổ chức bên trong, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, chuyển đổi các mối quan hệ, quy trình xử lý thông tin, ra quyết định và giải quyết công việc từ môi trường truyền thống sang môi trường số, cũng như thay đổi việc quản trị các nguồn lực trong cơ sở GDĐH và từ đó sinh ra những giá trị số và văn hóa số trên môi trường ảo.
Đối tượng chính của chuyển đổi số trong giáo dục là:
Quá trình CĐS trong giáo dục đại học tất yếu dẫn đến một mô hình mới trong việc cung cấp các phương pháp học tập và nghiên cứu cho mọi đối tượng người học. Cùng với quá trình CĐS, dần dần sẽ xuất hiện và phát triển một trường đại học "ảo" trên nền tảng số song hành với trường đại học "thực" tại một vị trí địa lý cố định.
Việc xuất hiện những loại học liệu mới, phong phú và đa dạng hơn từ các nguồn cung cấp qua internet, những "giảng đường ảo" có đối tượng người học không phân biệt về vị trí địa lý, trình độ đầu vào và cả những "giảng viên ảo" mới không thuộc biên chế cố định của một cơ sở giáo dục nào... và từ đó sẽ làm phát sinh những yêu cầu mới, những phương pháp quản lý và đánh giá mới cho toàn bộ hoạt động của trường đại học.
Chuyển đổi số (Digital transformation) (CĐS) là một khái niệm đã được thế giới đề cập tới nhiều trong những năm 2015, phổ biến từ năm 2017. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước chỉ ra rằng CĐS là xu thế tất yếu, diễn ra rất nhanh đặc biệt trong bối cảnh của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 như hiện nay.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về CĐS nhưng có thể nói chung đó là chuyển các hoạt động của chúng ta từ thế giới thực sang thế giới ảo ở trên môi trường mạng, thay đổi cách thức làm việc và quản trị. Theo đó, mọi người tiếp cận thông tin nhiều hơn, rút ngắn về khoảng cách, thu hẹp về không gian, tiết kiệm về thời gian. CĐS là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số, nói cách khác, CĐS là quá trình chuyển việc thực hiện các công việc cũ, nhiệm vụ cũ theo một cách mới thuận lợi hơn, thú vị hơn, hiệu quả hơn trên không gian mạng.
CĐS, trên thực tế, là một quá trình tuần hoàn không ngừng chứ không phải là một đích đến cố định. Sau mỗi chu trình vận động, thay đổi, những cách thức mới, giá trị mới, văn hóa mới sẽ được định hình và phát triển song song với sự phát triển của công nghệ, nền tảng… trên môi trường mạng.
1. Số hóa tài liệu và phát triển kho tài nguyên số.
2. Quy trình hóa và số hóa quy trình xử lý công việc, tổ chức giảng dạy, quản lý kết quả, hợp tác và sử dụng các kết quả nghiên cứu...
3. Áp dụng số hóa và số hóa quy trình vào thực tế trên các nền tảng (platform) và các ứng dụng thông minh, sử dụng các thiết bị công nghệ cao.
Sau bước (3) kể trên, quá trình trưởng thành số liên tục diễn ra theo chiều hướng ngày càng tiến bộ, thuận lợi hơn cho người dùng và người thực hiện quản trị.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định 03 mốc mục tiêu và 6 nhiệm vụ trọng tâm, phấn đấu đến năm 2045, đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, với thu nhập cao. Trong số các nhiệm vụ nhấn mạnh: Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện CĐS quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Tư tưởng này đã được cụ thể trong hàng loạt các Quyết định của các Bộ/ Ban/ ngành về việc CĐS, ứng dụng công nghệ thông tin như:
+ Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/09/2019 của Bộ Chính trị về “Một số cơ chế chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”;
+ Quyết định 749/QĐ-TTg ngày 03/06/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (trong đó giáo dục và đào tạo là một trong 8 lĩnh vực được ưu tiên triển khai thực hiện);
+ Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 phê duyệt của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (trong đó có đề cập đến giải pháp đột phá là xây dựng và phát triển các đại học số, như là trụ cột để đào tạo và phát triển năng lực số cho người dân và doanh nghiệp. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến thúc đẩy CĐS trong các cơ sở giáo dục đại học).
+ Quyết định số 2222/QĐ-TTg ngày 30/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030;
+ Quyết định số 206/QĐ-TTg ngày 11/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đối số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030;
+ Quyết định số 2289/QĐ-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030;
+ Quyết định số 127/QĐ-TTg ngày 26/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo đến năm 2030;
+ Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030;
+ Quyết định số 1726/QĐ-BTTTT ngày 12/10/2020 của Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt Đề án xác định bộ chỉ số đánh giá CĐS của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và của quốc gia;
+ Quyết định số 38/QĐ-BTTTT ngày 14/01/2021 của Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt Chương trình thúc đẩy, hỗ trợ chuyển đổi IPv6 cho cơ quan nhà nước giai đoạn 2021-2025;
Trong ngành giáo dục, Bộ GD&ĐT đã có Thông tư 12/2016/TT-BGDĐT quy định ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tổ chức đào tạo qua mạng. Trong Thông tư này, Bộ đã coi việc sử dụng trang thiết bị điện tử, học liệu điện tử, mạng interrnet là phương tiện hỗ trợ tổ chức và quản lý đào tạo theo hai hình thức: Đào tạo kết hợp và Học tập điện tử (e-learrning). Bộ cũng quy định rõ những nội dung đào tạo nào được triển khai qua mạng;
Ngoài ra, ngày 30/03/2021, Bộ cũng ban hành Thông tư 09/2021/TT-BGDĐT Quy định về quản lý và tổ chức dạy học trực tuyến trong cơ sở giáo dục phổ thông và cơ sở giáo dục thường xuyên.
Ngày 30/12/2022, Bộ ban hành Quyết định số 4750/QĐ-BGDĐT về “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và CĐS năm 2023 của Bộ GDĐT”, xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện gồm (1) xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách (2) tăng cường các điều kiện đảm bảo triển khai ứng dụng CNTT và CĐS trong giáo dục, đào tạo (3) phát triển hệ sinh thái CĐS hoạt động dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học (4) triển khai hệ thống thông tin quản lý giáo dục đào tạo (5) triển khai đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ CĐS quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030 và (6) tuyên truyền, phổ biến, phát triển nhân lực thực hiện CĐS ngành giáo dục.
Cùng ngày, Bộ ban hành Quyết định 4740/QĐ-BGDĐT ngày 30/12/2022 về Bộ chỉ số, tiêu chí đánh giá CĐS cơ sở giáo dục đại học gồm bộ chỉ số, tiêu chí đánh giá CĐS trường đại học gồm 2 nhóm tiêu chí thành phần (i) nhóm tiêu chí “CĐS trong đào tạo và (ii) Nhóm tiêu chí “CĐS trong quản trị cơ sở GDĐH”. Ngoài ra, Bộ chỉ số thể hiện rõ thang đo đánh giá mức độ CĐS trường đại học gồm hàng loạt các nhóm tiêu chí thành phần với 3 mức độ (i) chưa đáp ứng (ii) đáp ứng cơ bản và (iii) đáp ứng tốt nhằm định hướng và giúp các trường đại học chủ động trong công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch hoạt động theo xu hướng CĐS hiện nay.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Trường Đại học Ngoại thương nhiệm kỳ 2020-2025 ngày 29/06/2020 xác định mục tiêu: "Nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học, bao gồm trang thiết bị, hạ tầng về công nghệ thông tin, đẩy mạnh thực hiện CĐS đảm bảo đáp ứng yêu cầu đào tạo và nghiên cứu trong bối cảnh hội nhập quốc tế; xây dựng một số hạng mục đảm bảo đạt chuẩn quốc tế."
Chiến lược phát triển Trường Đại học Ngoại thương giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2040 xác định rõ xu thế tất yếu của CĐS và một số kết quả đã đạt được thông qua quá trình CĐS của Nhà trường. Chiến lược cũng chỉ ra việc thiếu nguồn nhân lực cho CĐS là một trong những hạn chế hiện nay của Nhà trường từ đó xác định mục tiêu dành nguồn lực tài chính cho CĐS (Mục tiêu 4) cũng như xác định CĐS là một trong những hoạt động được chú trọng, là đột phá chiến lược trong giai đoạn 2021-2025.
Trong Kế hoạch hoạt động của Hội đồng trường năm 2022 với mục tiêu nâng cao năng lực của Nhà trường thông qua việc triển khai xây dựng và thực hiện một số dự án/đề án; đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai CĐS, hướng tới trở thành một trường đại học thông minh cũng chỉ rõ cần xây dựng phương hướng CĐS của Nhà trường
Chương trình công tác của Ban chấp hành Đảng bộ Trường Đại học Ngoại thương năm 2023 xác định việc xây dựng mô hình CĐS phù hợp với điều kiện của Nhà trường; phát triển hệ sinh thái giáo dục trên không gian mạng là một trong những nội dung hoạt động lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn của Ban chấp hành.
Các văn bản chỉ đạo về việc sử dụng các công cụ, tài khoản email, hướng dẫn và các quy trình sử dụng phòng máy, vận hành phòng máy khi tổ chức thi và các văn bản khác
Như vậy, có thể khẳng định, CĐS đã được xác định là một trong các nhiệm vụ trọng tâm, đột phát chiến lược trong xây dựng, phát triển Trường Đại học Ngoại thương và đã được khẳng định rõ trong các văn bản chỉ đạo của Nhà trường.
Như đã phân tích ở trên, việc phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 hiện nay mang đến rất nhiều thách thức nhưng cũng là cơ hội rất lớn cho toàn xã hội. Chuyển đối số là một quá trình và là đòi hỏi tất yếu trong thời điểm hiện nay đối với xã hội nói chung, giáo dục đại học và Trường Đại học Ngoại thương nói riêng.
Chuyển đổi số đã được xác định rõ trong các văn bản chỉ đạo từ cấp cao nhất và cần được bắt đầu thực hiện trong thời gian sớm nhất.
Vì vậy, cần thiết phải xây dựng Đề án chuyển đổi số của Trường Đại học Ngoại thương để xác định rõ bước đi, các nhiệm vụ cụ thể, những khâu đột phá trong giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2030 và sớm triển khai các nhiệm vụ này nhằm biến Trường Đại học Ngoại thương trở thành trường đại học điện tử (năm 2025) và hướng tới trở thành trường đại học số (năm 2030).
Nắm bắt được xu hướng chung của quá trình CĐS mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong ngành giáo dục, Nhà trường coi CĐS là một trong các nhiệm vụ trọng tâm, được khẳng định trong Chiến lược phát triển Trường Đại học Ngoại thương giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2040, cụ thể xác định:
Giai đoạn 2021 – 2025: Phát huy tự chủ đại học, đổi mới quản trị đại học và CĐS, phát triển đội ngũ và nâng cao năng lực nghiên cứu. Thành lập phân hiệu, doanh nghiệp và viện nghiên cứu, chuẩn bị điều kiện thành lập các trường thành viên. Phát triển ngành đào tạo mới, tăng cường cơ sở vật chất, củng cố nền tảng và phát triển cùng lõi của hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo – chuyển giao tri thức; cải thiện các tiêu chí xếp hạng quốc tế.
Giai đoạn 2026 – 2030: Phát triển lĩnh vực đạo tạo mới, liên ngành. Thành lập các trường thành viên, hoàn thiện cơ cấu tổ chức của đại học 3 cấp và quản trị đại học. Phát triển các hoạt động nghiên cứu mũi nhọn, phát triển mạnh mẽ hệ sinh thái đổi mới sáng tạo – chuyển giao tri thức và khởi nghiệp, trở thành diển hình của đại học đổi mới sáng tạo trong khối ngành kinh tế, kinh doanh tại Việt Nam.
Giai đoạn 2031 – 2040: Khẳng định vị thế đại học đổi mới sáng tạo quản trị hiệu quả trên nền tảng số. Thuộc nhóm 300 đại học hàng đầu Châu Á.
Trong giai đoạn vừa qua, Nhà trường đã sử dụng một số ứng dụng, phần mềm trong công tác quản lý, điều hành, giảng dạy, học tập và đánh giá, cụ thể
(i) Phần mềm quản lý giảng dạy và học tập theo hệ thống tín chỉ: sử dụng tại các đơn vị quản lý đào tạo gồm:
+ Tại trụ sở chính: Phòng Quản lý đào tạo, Khoa Đào tạo trực tuyến và Phát triển nghề nghiệp, Khoa Sau đại học, Khoa Đào tạo quốc tế, Trung tâm Feretco, Phòng Kế hoạch tài chính, Phòng Công tác chính trị và sinh viên.
+ Tại cơ sở 2: Ban Quản lý đào tạo, Ban Đào tạo quốc tế, Ban Kế hoạch tài chính
+ Tại cơ sở Quảng Ninh: Ban Quản lý đào tạo và công tác sinh viên
(ii) Phần mềm quản lý tài chính: là một phân hệ độc lập với các chức năng theo dõi thu chi tài chính liên quan đến quá trình tổ chức đào tạo.
Phần mềm (i) và (ii) cho phép cấp quyền sử dụng tới từng giảng viên và sinh viên, gồm các Phân hệ: Đào tạo đại học chính quy, Đào tạo tại chức, Đào tạo Sau đại học, Tài chính – Kế toán.
Số liệu tại các phần mềm (i) và (ii) được chuyển thủ công sang phần mềm eSoft dưới dạng file excel theo biểu mẫu có sẵn.
Các đơn vị chức năng đầu mối sử dụng phần mềm (i) và (ii) được giao quản lý 01 tài khoản admin phân hệ, có quyền quản lý, điều chỉnh tham số hệ thống, cấp quyền hoặc ngắt các quyền của người dùng thuộc phân hệ sử dụng.
Giảng viên sử dụng tài khoản chính danh được cấp thông qua mã cán bộ, sử dụng để theo dõi quá trình giảng dạy (của bản thân) và học tập (của người học, của sinh viên được giao quản lý, cố vấn học tập), đồng thời sử dụng để cập nhật thông tin học tập (tiến trình học của người học, điểm); nộp bảng điểm trực tuyến và in, nộp bảng điểm theo mẫu trực tiếp.
Sinh viên, học viên được cấp 01 tài khoản chính danh (thông qua mã sinh viên, mã học viên) để đăng ký học tập, theo dõi quá trình học tập, gửi ý kiến phản hồi đến các bộ phận chức năng có liên quan…
Phụ huynh (nếu sinh viên đăng ký) có quyền được cùng theo dõi các thông tin có liên quan đến người học.
Phần mềm sử dụng bằng 01 module cài đặt, kết nối với máy chủ tĩnh (đặt tại Trung tâm CNTT) qua đường mạng LAN (eduNET) và 01 portal kết nối dữ liệu với máy chủ tĩnh, có địa chỉ tại website http://ftugate.ftu.edu.vn.
Các phân hệ của tất cả các cơ sở được kết nối liên thông dữ liệu, sử dụng chung tài nguyên dữ liệu và CSDL được lưu, backup tại máy chủ tĩnh, đặt tại TT CNTT.
Ngoài ra, tại Phòng Kế hoạch tài chính còn sử dụng phần mềm tài chính eSoft (dạng LAN) để thực hiện các báo cáo về tài chính theo quy định, CSDL được lưu ở máy chủ riêng.
(iii) Phần mềm quản lý phòng học: là một phân hệ độc lập của Phần mềm quản lý giảng dạy và học tập theo hệ thống tín chỉ, cho phép theo dõi việc sử dụng các phòng học căn cứ trên tiến độ và thời khóa biểu của các đơn vị đào tạo.
(ix) Phần mềm Smart office cung cấp các chức năng thiết lập và công bố lịch công tác, lịch làm việc; phân phối công văn đi/ đến; theo dõi và đăng ký sử dụng xe ô tô; theo dõi và đăng ký sử dụng phòng học, phòng họp…
(v) Phần mềm quản lý khoa học đặt tại địa chỉ website https://eresearch.ftu.edu.vn.
Phần mềm cung cấp cho tất cả người dùng một tài khoản sử dụng online theo danh mục người dùng là cán bộ của Nhà trường để theo dõi việc kê khai giờ nghiên cứu khoa học và phê duyệt, thông báo cho người dùng, đồng thời sử dụng dữ liệu này kế thừa cho một số hệ thống khác theo yêu cầu.
Cán bộ phụ trách phần mềm được cung cấp 01 tài khoản admin và các quyền admin phụ để thực hiện các chức năng theo phân công nhiệm vụ.
CSDL được lưu và back up tại máy chủ ảo (cloud amazone, chùng chung với một số phần mềm khác)
(vi) Phần mềm tuyển sinh trực tuyến đặt tại địa chỉ https://tuyensinh.ftu.edu.vn.
Phần mềm tuyển sinh cung cấp 01 tài khoản admin để thiết lập các đợt tuyển sinh, các yêu cầu về tuyển sinh và theo dõi các báo cáo, thống kê, xét tuyển trực tuyến.
Phần mềm cho người dùng chủ động đăng ký 01 tài khoản, định danh theo số căn cước công dân; thực hiện gửi nhận các thông tin với HĐTS, nộp hồ sơ trực tuyến và in/ nộp hồ sơ trực tiếp; có chức năng phản hồi hai chiều qua email.
CSDL được lưu tại máy chủ ảo (cloud amazone, cùng với dữ liệu của Phần mềm quản lý khoa học)
(vii) Phần mềm hỗ trợ thực hiện học phần tốt nghiệp tại địa chỉ https://eprofile.ftu.edu.vn.
Phần mềm cung cấp 01 tài khoản admin và các tài khoản quản lý trực tiếp tại các Viện/ Khoa; các tài khoản thành viên Hội đồng xét tốt nghiệp.
Tất cả các sinh viên thuộc các hệ đào tạo được cung cấp 01 tài khoản chính danh, có đầy đủ thông tin, được kế thừa từ danh mục sinh viên của Nhà trường, cho phép sinh viên theo dõi thông tin về các đợt tốt nghiệp, gửi và nhận các thông tin có liên quan, đăng ký thực hiện học phần tốt nghiệp và đăng ký xét tốt nghiệp.
Thành viên HĐ xét tốt nghiệp được cung cấp 01 tài khoản chính danh (theo danh sách của HĐ) để xem các báo cáo tổng kết về tình hình xét tốt nghiệp theo đợt, kiểm tra chi tiết thông tin của sinh viên thuộc đợt xét; có thể gửi hoặc nhận các yêu cầu kiểm tra hồ sơ tới thường trực HĐ hoặc tới các thành viên khác của HĐ.
(viii) Phần mềm quản lý thư viện gồm các phân hệ quản trị thư viện điện tử tích hợp iLib: Giải pháp dành cho Thư viện nhằm tin học hoá toàn bộ hoạt động nghiệp vụ thư viện và phần mềm thư viện số iLib.DLib: Quản lý và khai thác các dạng tài liệu điện tử, tài liệu số. Nhằm đưa thư viện thực sự trở thành thư viện số, thư viện ảo. Các phần mềm có thể thể hiện ở dạng cổng thông tin điện tử tích hợp, có kết nối với hệ thống thư viện quốc gia
Ngoài ra, tùy vào từng mục đích sử dụng, một số đơn vị được trang bị thêm một số phần mềm như (ix) Phần mềm quản lý tạp chí (dành cho Tạp chí), (x) Phần mềm quản lý wifi (Trung tâm CNTT), (xi) Phần mềm quản lý văn bằng, chứng chỉ (Phòng QLĐT), (xii) Phần mềm và ứng dụng sổ tay điện tử và văn phòng một cửa trực tuyến (Phòng QLĐT, TTHTSV)… và một số website và phần mềm khác.
đa phần sử dụng các phần mềm của Microsoft office, Office 365, các ứng dụng phổ biến gồm word, excel, powerpoint và phần mềm xây dựng bài giảng trực tuyến (canva).
+ các email chung của một số đơn vị thường xuyên sử dụng, giao tiếp với các đối tượng người dùng (email của các đơn vị, phòng ban, cơ sở, viện/khoa…)
+ các tài khoản email dành cho toàn bộ học viên, sinh viên trúng tuyển, các cán bộ, giảng viên làm việc tại trường (theo định dạng mail@ftu.edu.vn –chính danh)
+ các tài khoản MsTeams được đăng ký và cấp cho toàn bộ giảng viên và học viên, sinh viên.
+ các tài khoản smart office sử dụng cho hệ thống quản lý văn bản, công văn… (tại địa chỉ https://soe.vn và app tương ứng)
+ các tài khoản của hệ thống quản lý giảng dạy và học tập theo hệ thống tín chỉ, tài khoản theo dõi khối lượng công việc và thanh toán giờ giảng vượt giờ, tài khoản theo dõi thực hiện học phần tốt nghiệp và xét tốt nghiệp, tài khoản theo dõi khối lượng giờ tham gia nghiên cứu khoa học…
+ các tài khoản khác của hệ thống sổ tay sinh viên, cấp theo định danh mã sinh viên.
Về phần mềm sử dụng để giảng dạy
(sử dụng bằng cách đăng ký hoặc mua bản quyền sử dụng trong thời gian giảng dạy trực tuyến)
Các phần mềm này được sử dụng đa dạng trong thời gian đầu tiên của dịch Covid-19 (2019-2020), sau đó, sử dụng thống nhất phần mềm của hệ thống MsTeams cho toàn bộ cán bộ, giảng viên và sinh viên trong việc hội họp, hội thảo, học và thi…
Về công nghệ dạy học, cũng có một số phần mềm hỗ trợ trong tổ chức dạy học như công nghệ thực tế ảo VR, công nghệ AR; Công nghệ mô phỏng 3D…
Về công nghệ hỗ trợ kiểm tra chất lượng:
và một số phần mềm, ứng dụng khác đã từng sử dụng (Phần mềm Thiên An – tinchi) hoặc đang trong quá trình nghiên cứu, sử dụng thử nghiệm tại các đơn vị;
Về các cổng thông tin: Cổng thông tin kết nối doanh nghiệp (P.QLKH), cổng thông tin việc làm (TT HTSV, Viện ĐT&TVDN), cổng thông tin đổi mới sáng tạo (FIIS)…
Trong quá trình triển khai công tác, các đơn vị Văn phòng, Khoa, Viện đã áp dụng một số các ứng dụng website, portal, mạng xã hội để kết nối với đối tượng chủ yếu là giảng viên và người học, cụ thể một số ứng dụng phổ biến gồm:
và một số ứng dụng mạng xã hội phổ biến khác như TikTok, Telegram, Skype...
* Về hệ thống máy chủ, các loại máy tính tại các phòng máy tính dùng chung và máy tính phục vụ công việc tại các đơn vị
- Máy chủ vật lý: (số liệu đến tháng 3 năm 2021)
Máy chủ ảo (server cloud)
- Máy vi tính tại các phòng máy tính (phục vụ thi trực tuyến và học tập của các học phần CNTT): tại Trụ sở chính có 240 máy, phân bổ tại 5 phòng máy tính (cụ thể: G401&402: 70 máy; G403: 30 máy; B408A: 60 máy; B408B: 40 máy; B504: 40 máy); tại Cơ sở II 1 phòng máy tính có 80 máy và Cơ sở Quảng Ninh - 1 phòng với 15 máy tính) – tổng số: 335 máy.
- Máy tính trang bị tại các đơn vị, phòng ban chức năng: khoảng 360 máy
- Máy fotocopy: mới được trang bị bổ sung các máy thuê theo nhu cầu (23 máy) và một số máy được trang bị ở một số phòng ban khác (TCNS, Văn Thư, QLĐT, ĐTTT&PTNN…)
- Máy Scan và các loại thiết bị khác phục vụ số hóa: chưa có số liệu thống kê cụ thể
* Về đường truyền internet và wifi, bảo mật các website
- Hiện đã có 18 đường cáp quang và mạng LAN phục vụ cho 73 phòng học
- Đang sử dụng 3 đường truyền Leased line x 300 có khả năng đáp ứng được tối đa 3.000 người dùng đồng thời (tại Trụ sở chính)
- Phủ sóng wifi toàn bộ khuôn viên trụ sở chính với 172 điểm truy cập wifi, đáp ứng nhu cầu sử dụng của khoảng 3.000 người dùng đồng thời.
- Đã cài đặt SSL cho 55 website để đảm bảo hoạt động ổn định, chống tấn công mạng.
* Trang thiết bị khác phục vụ hội họp và giảng dạy trực tuyến: đã đầu tư 02 camera ở các phòng hội thảo lớn (A0901 và A1001) phục vụ họp trực tuyến và 57 camera cho các phòng học – phục vụ giảng dạy trực tuyến.
Stt | Tên hãng | Năm trang bị | Mục đích sử dụng | |
---|---|---|---|---|
1
HP LH6000
2006
Máy chủ ISA quản lý chính sách mạng
Trung tâm CNTT
2
HP ML350
2007
Máy chủ công văn điện tử NetOffice cũ
Phòng TCHC
3
HP DL580
2007
Máy chủ quản lý tên miền ftu.edu.vn (DNS)
Trung tâm CNTT
4
FPT Elead
2009
Máy chủ Tín chỉ, thu học phí
Phòng QLĐT
5
IBM x3650m2
2012
Máy chủ Tín chỉ, thu học phí (Backup)
Phòng QLĐT
6
IBM x3650m3
2012
Máy chủ quản lý nhân sự, quản lý khoa học
Phòng TCHC
7
Dell T710
2012
Máy chủ cổng thông tin Thư viện
Thư viện
8
Sun Oracle 7320
2012
Máy chủ quản lý tài liệu số Thư viện
Thư viện
9
Dell TL2000
2012
Máy chủ TAPE Thư viện
Thư viện
10
Dell R910
2012
Máy chủ phần mềm nghiệp vụ Thư viện
Thư viện
11
Dell R710M
2012
Máy chủ phần mềm nghiệp vụ Thư viện
Thư viện
12
Dell T710
2012
Máy chủ Tra soát luận văn
Trung tâm CNTT
13*
Dell T710
2012
Máy chủ Thi trắc nghiệm Tiếng Anh (Đã hỏng)
Trung tâm CNTT
14*
Dell R710
2012
Máy chủ Website cũ (Đã hỏng)
Trung tâm CNTT
15*
Sun Oracle 4170
2012
Máy chủ Elearning (Đã hỏng Storage)
Trung tâm CNTT
16
Dell T710
2012
Máy chủ điều tra chất lượng
Trung tâm KT&ĐBCL
17
Dell T110 II
2014
Máy chủ quản lý phần mềm Wifi
Trung tâm CNTT
18
Dell T110 II
2014
Máy chủ quản lý tài khoản Wifi
Trung tâm CNTT
19
Dell R73xd
2016
Máy chủ Website chính (Đang di chuyển website lên hosting)
Trung tâm CNTT
20
Dell R73xd
2016
Máy chủ Website các đơn vị (Đang di chuyển website lên hosting)
Trung tâm CNTT
21
Dell R73xd
2016
Máy chủ Thi trắc nghiệm Tiếng Anh (MC Website đơn vị cũ tận dụng)
Trung tâm CNTT
22
HP ML350 Gen10
2019
Máy chủ phần mềm tín chỉ mới
Phòng QLĐT
23
HP ML350 Gen10
2019
Máy chủ phần mềm tín chỉ mới
Phòng QLĐT
24
HP ML350 Gen10
2019
Máy chủ phần mềm tín chỉ mới
Phòng QLĐT
Đánh giá chung
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin tại Trường rất được quan tâm và thực hiện liên tục trong nhiều năm qua, đóng góp thiết thực cải thiện hiệu quả, chất lượng công việc. Hầu hết các lĩnh vực chuyên môn, chức năng cơ bản đều có phần mềm ứng dụng. Đặc biệt trong 5 năm trở lại đây nhà trường đã đầu tư mạnh mẽ cho hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin, hệ thống thư viện số và các dự án CNTT phục vụ cho hoạt động đào tạo, quản trị nội bộ, thuận lợi hóa cho hoạt động của CBCNV và người học.
Trong 2 năm trở lại đây (2020-2022) nhà trường đã thử nghiệm triển khai một số sự án số hóa và ứng dụng số, bước đầu đạt hiệu quả tốt như: 1) dự án số hóa tài liệu, từng bước hoàn thiện hệ thống lưu trữ tài liệu số; 2) dự án phát triển hệ thống đào tạo từ xa; 3) dự án hoàn thiện các phần mềm cho chuỗi hoạt động đào tạo từ công tác tuyển sinh, quản trị tín chỉ, quản trị tốt nghiệp, quản lý hồ sơ cấp bằng; 4) dự án về thư viện số, phát triển hệ thống tài liệu số; 5) các dự án phần mềm về quản trị cơ sở hạ tầng, phòng học; 6) các dự án tăng cường kết nối cộng đồng thông qua cổng thông tin…
Tuy nhiên, có thể nhận thấy một số điểm như sau:
Thứ nhất: việc đưa vào sử dụng một số phần mềm, ứng dụng còn tùy thuộc vào nhu cầu cụ thể của từng đơn vị. Các phần mềm được cung cấp bởi nhiều nhà cung cấp khác nhau, không có sự đồng nhất về nền tảng, dẫn đến việc một cá nhân trong quá trình làm việc, giảng dạy và học tập được cung cấp nhiều tài khoản ở các ứng dụng khác nhau. Trong khi đó, các ứng dụng này lại không có sự liên thông, đồng bộ về mặt dữ liệu nên dẫn đến những khó khăn cho quá trình thực hiện.
Từ đánh giá các nhóm phần mềm, ứng dụng hiện tại cho thấy, có 2 hệ thống lớn hiện đang liên thông dữ liệu hiệu quả nhất gồm:
- Hệ thống phần mềm phục vụ quản lý giảng dạy và học tập theo hệ thống tín chỉ (do công ty CNPM Anh Quân cung cấp) gồm các module phân hệ dành cho trụ sở chính (gồm cả quyền sử dụng cho Cơ sở Quảng ninh, gồm các module Đại học chính quy, Đại học Liên kết, Đại học phi chính quy và Sau đại học; Module Tài chính – Kế toán và Module quản lý phòng học), module phân hệ dành cho Cơ sở 2 (Đại học chính quy, liên kết, tài chính…). CSDL dùng chung về giảng viên, người học và các dữ liệu quản lý, điều hành khác được lưu thống nhất tại máy chủ tĩnh đặt tại TTCNTT (từ năm 2021) tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình quản lý, điều hành nói chung và theo dõi người học nói riêng.
Từ năm 2021, các module này đã có khả năng liên kết dữ liệu người dùng dùng chung, trên cơ sở danh sách giảng viên và sinh viên thực tế của Nhà trường. (Trước năm 2021, mỗi module phân hệ quản lý đào tạo sẽ cung cấp 1 tài khoản khác nhau cho từng nhóm cán bộ khi thực hiện nhiệm vụ tại các đơn vị).
- Hệ thống phần mềm được xây dựng bổ sung trên cơ sở liên kết với ứng dụng sổ tay điện tử (FTU e-Home) gồm các module tuyển sinh trực tuyến, theo dõi và thanh toán giờ giảng, theo dõi và hỗ trợ thực hiện học phần tốt nghiệp, xét tốt nghiệp, theo dõi và quản lý giờ nghiên cứu khoa học với CSDL dùng chung được kế thừa (chưa có liên kết API) từ Hệ thống quản lý tín chỉ và lưu trữ tại server cloud với tài khoản dùng chung dành cho 1 người dùng tại tất cả các module phân hệ nhỏ.
Thứ hai: một số đơn vị chức năng chưa có hoặc chưa đưa vào sử dụng các phần mềm quản lý hiện đại, ví dụ như Phòng TCNS, KTX, HCTH, (hồ sơ y tế, quản lý và lưu trữ văn bản, quản lý hồ sơ), TT ĐBCL (hệ thống thông tin phục vụ lưu trữ, đánh giá trong và đánh giá ngoài)…
Một số đơn vị được giao sử dụng các phân hệ phần mềm chưa khai thác một cách hiệu quả các tính năng của hệ thống.
Thứ ba: việc xây dựng và sử dụng website tổng của Nhà trường còn chậm. Các đơn vị đều có 1 website riêng dẫn đến thông tin cung cấp cho những người quan tâm còn nhiều hạn chế, chưa đạt được hiệu quả truyền thông, hiệu ứng lan tỏa thông tin chung. Lượng truy cập vào website tổng thấp vì người dùng sẽ chủ động tìm kiếm trực tiếp thông tin từ các website con của các đơn vị.
Thứ tư: về hạ tầng kỹ thuật, dù đã được đầu tư nâng cấp trong thời gian gần đây, nhưng về cơ bản vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu người dùng ngày càng tăng. Số lượng máy chủ hiện có khấu hao là 0% chiếm phần lớn tổng số máy chủ hiện có. Chỉ có 03 máy chủ được đầu tư mới, có khấu hao còn lại vào năm 2021 là 60% đang được sử dụng để phục vụ các hệ thống quản lý giảng dạy và học tập theo hệ thống tín chỉ cho cả 3 cơ sở.
Một số hệ thống, website hiện nay đang được sử dụng host và server cloud (số lượng rất ít) nhưng đã chứng minh được ưu thế vượt trội của hình thức lưu trữ này.
Hệ thống wifi với rất nhiều điểm kết nối (172) đang phục vụ cho tối đa khoảng 3.000 lượt truy cập internet. Trên thực tế, con số này là thấp đối với số lượng người dùng thường xuyên sử dụng 01 máy tính xách tay và 01 điện thoại thông minh liên tục vào giờ cao điểm.
Băng thông quốc tế (50mb) chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng để dạy học (trong trường hợp cần thiết, khi phải chuyển sang giảng dạy trực tuyến hoặc giảng dạy bằng các phần mềm, ứng dụng có sử dụng băng thông quốc tế).
CĐS, như đã phân tích ở trên, là cần thiết nhằm tạo ra những trải nghiệm mới, thú vị hơn, thuận lợi hơn cho cả người học, giảng viên và đội ngũ cán bộ quản lý và đang là một xu thế không thể đảo ngược đối với tất cả các cơ sở giáo dục đại học. Nhưng, CĐS trong giáo dục đại học cũng gặp phải những thách thức rất lớn từ chính những người thực hiện CĐS và những người thụ hưởng.
Về phía người thực hiện, do có những khái niệm khác nhau về CĐS và thang đo của quá trình CĐS, thách thức lớn nhất là về vấn đề xác định những trọng tâm, trọng điểm của quá trình CĐS. Nghiên cứu một số mô hình CĐS của các cơ sở giáo dục cho thấy, một số nơi tập trung vào việc đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng và lấy đó làm thang đo cho thành công của CĐS. Một số nơi khác lại lấy việc số hóa các tài liệu, học liệu làm thang đo hoặc một số cơ sở lại tập trung vào việc xây dựng các nền tảng… thậm chí, có những cơ sở đã tuyên bố thành công trong quá trình này bằng việc liên tục tạo ra các phần mềm rời rạc, các khóa học được xây dựng bằng các công cụ lỗi thời, thậm chí là các bài giảng được biên tập lại từ những đoạn rời rạc được quay trực tiếp tại lớp học trong quá trình tổ chức lớp học thời điểm dãn cách xã hội do covid-19.
Về phía người học, ngoài việc nhận thấy khối lượng công việc bị tăng lên do tham gia các lớp học trực tuyến khi phải theo dõi các bài giảng trên nền tảng số và phải thực hiện thêm nhiều bài tập, nhiệm vụ khác có liên quan để đáp ứng được yêu cầu về tổ chức lớp học, người học còn có một rào cản lớn hơn đó là vấn đề thiếu động lực học tập và tinh thần tự giác khi học tập. Đây cũng là một vấn đề rất lớn trong quản lý nhằm đảm bảo chất lượng học tập của người học bằng cách tổ chức các lớp học ảo trên môi trường số.
Về phía giảng viên, một số nghiên cứu, khảo sát chỉ ra rằng giảng viên cũng bị thách thức bởi vấn đề tăng khối lượng công việc khi thực sự đảm nhận các lớp học trực tuyến. Trái với lớp học trực tiếp, khi giảng viên có thể giảng dạy vào một thời gian có định và xử lý toàn bộ các vấn, thắc mắc có liên quan ngay trong thời gian đó, giảng viên tham gia giảng trực tuyến còn phải theo dõi từng học viên và trả lời những thắc mắc của người học thông qua diễn đàn vào bất cứ thời gian nào trong khóa học với những yêu cầu cụ thể về thời hạn phải giải đáp các thắc mắc này.
Ngoài ra, việc thiếu các kỹ năng cần thiết để tự tổ chức, quản lý khóa học cũng là vấn đề làm ảnh hưởng đến sự hào hứng của giảng viên. Đồng thời, một bộ phận không nhỏ giảng viên có năng lực công nghệ chưa đảm bảo vẫn tin tưởng và muốn được giao các lớp học trực tiếp hơn khi tự đặt ra những nghi ngờ về chất lượng của việc học tập thông qua hình thức trực tuyến.
Trường Đại học Ngoại thương đã sẵn sàng cho việc thực hiện CĐS, trở thành Trường Đại học thông minh (2025) và Trường Đại học số (2030) vì các lý do sau đây:
Bối cảnh và sự cần thiết thực hiện chuyển đổi số